Có thể nói,
thời điểm năm 2006 là thời điểm “phát” của phong trào dân chủ VN, các tổ chức,
hội nhóm “trăm hoa đua nở” thi nhau tuyên bố ra đời… trên mạng. Nào là Đảng Dân
chủ thế kỷ XXI, Đảng Thăng Tiến, Hội Dân Oan,… Trong bối cảnh ấy, cụ Hoàng Minh
Chính nhận thức rằng cần phải liên minh các danh xưng ấy lại thành một phong
trào, gọi tên là “Phong trào dân chủ VN”, ông còn nhận định thời điểm đó đã
chín muồi để ra đời các tổ chức chính trị đối lập với ĐCSVN. Từ nhận định chủ
quan đó, ông triệu tập các “nhà dân chủ” có máu mặt mà ông biết để lấy ý kiến,
trong đó có các nhà dân chủ như Trần Khuê, Hoàng Tiến, Đỗ Nam Hải, Phạm Quế
Dương, Nguyễn Thanh Giang… và trong một buổi “họp kín” ông đã giao cho Đỗ Nam
Hải chấp bút soạn thảo cái gọi là bản “Tuyên ngôn dân chủ”.
Chấp hành lệnh
của trưởng bối, anh Hải đã lên mạng tìm kiếm các bản tuyên ngôn để nghiên cứu,
xào xáo lại thành một bản tuyên ngôn cho anh. Nhưng không may cho anh trong quá
trình chấp bút do năng lực viết lách và kiến thức xã hội hạn chế nên anh thường
phải liên lạc với các “nhà dân chủ” khác để tham khảo ý kiến, nên thông tin về
việc anh đang chuẩn bị cho ra đời bản “Tuyên ngôn dân chủ” cũng đến được tai Cơ
quan an ninh. Ngay lập tức anh bị bố ráp chặt, bị quần thảo liên tục đến nỗi
anh chỉ phác thảo được những nét cơ bản, sau đó gửi đi tham khảo một số người.
Trong số đó có cha xứ Nguyễn Văn Lý, ông Lý đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ,
sửa lại một số phần theo ý của ông rồi tán phát công khai bất chấp, không tham
khảo ý kiến của anh Hải hay cụ Hoàng Minh Chính. Sự tinh ranh của cha xứ Lý ở
chỗ, ông nguỵ biện sự cướp công của mình bởi lý do cần phát tán nhanh, gấp nhằm
tránh bị công an ngăn chặn. Thế là công lao bao ngày tâm huyết và chịu nhiều
uất ức thiệt thòi thì bản thảo tâm huyết của anh Hải bỗng chốc trở thành bản
của cha xứ Nguyễn Văn Lý với nội dung khác xa đầy hằn học và nặng tính hiếu
chiến.
Sau khi bản
“Tuyên ngôn dân chủ VN” được công bố, ông Trần Khuê đọc thấy đã không hài lòng
với lời lẽ, bố cục, nên chỉ sau một đêm ông đã thảo ra một bản khác và cũng cho
công bố công khai. Tuy nhiên, tiếc là người ta thường rất ưu ái cho cái mới ra
nên bản “tuyên ngôn” của ông Trần Khuê do ra muốn nên đã không được đón nhận,
trái lại còn bị bài kích và nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Sự nghiệp dân
chủ của anh Hải đáng lý đã vẻ vang hơn nếu bản “tuyên ngôn” ấy là của anh,
nhưng trớ trêu thay sau cái sự cố bị cướp công đó anh đã mãi mãi trở thành cái
bóng mờ nhạt chịu nhiều điều tiếng mà cái “thơm tho” người khác lại hưởng trọn.
Cha xứ Nguyễn
Văn Lý sau khi công bố bản “tuyên ngôn” đã có nhiều người ủng hộ, hưởng ứng bởi
sự mới mẻ và sự thèm khát của các “nhà dân chủ” lúc đó. Với bản chất ma mãnh,
tinh quái của một vị cha xứ từng trải, ông đã cùng số môn đồ thân thiết như Phan
Văn Lợi, Nguyễn Chính Kết lập nên một tổ chức với tên gọi là “Khối 8406”.
Để làm đẹp mặt
tổ chức, vừa để anh Hải bớt cay cú mà chọc gậy phá đám nên cha Lý và Lợi bàn
bạc lập ra Ban đại diện và cho anh Hải đứng tên trong đó cho có ban, có bệ.
Nhưng anh Hải vốn tính bộc trực nên không đủ khả năng nhìn thấu suốt được những
toan tính của hai vị cha xứ đầy bản lĩnh ấy và cứ thế anh bị cuốn trôi theo.
Ngày đêm anh cứ tưởng mình có ảnh hưởng lớn trong cái tổ chức rất được hưởng
ứng ấy, anh liên tục trả lời phỏng vấn với những điệp khúc quen thuộc: “Tôi
Phương Nam – Đỗ Nam Hải, đang phát biểu từ thành phố Sài Gòn, Việt Nam”; anh
cũng “thường xuyên” được cha xứ Phan Văn Lợi gửi nội dung các bản “Kháng thư”
để góp ý… nhưng thực ra, nếu xét công bằng thì anh chỉ bị lợi dụng danh xưng
cho đa dạng thành thần, chứ thực chất các cha xứ đó đã dần lái “Khối 8406” sang
hướng thuần tôn giáo từ lúc nào anh nào có biết. Tổ chức Khối 8406 thực chất
phát triển tới đâu, được hưởng ứng, tài trợ thế nào, dù anh là người trong ban
đại diện nhưng gần như chỉ biết khi không cần phải giấu. Ở ngoại quốc, hàng
loạt các khối yểm trợ như 1706, 1906 lần lượt ra đời nhằm quyên góp tiền tài
trợ và đã gửi về cho “Khối 8406” qua cha xứ Phan Văn Lợi hàng năm trên dưới
trăm ngàn USD, cha xứ Lợi gửi tài trợ cho thân nhân một số anh chị em đang chấp
hành án tù chính trị để lấy tiếng, chứng minh với hải ngoại, còn lại ông viện
cớ củng cố tổ chức “Khối 8406” thoải mái tiêu xài. Anh Hải thi thoảng mới được
ông nhón tay ban cho một ít thơm thảo.
Cha xứ Phan
Văn Lợi ung dung hưởng thụ nơi thành phố Huế mộng mơ, còn nơi Sài Thành đổ lửa,
anh Hải phải chịu cảnh “hữu danh, vạ thực”. Bởi có tên trong Ban đại diện mà
anh bị công an TPHCM chăm sóc chu đáo, chẳng hoạt động được gì, cứ ru rú trong
nhà để trả lời phỏng vấn lên án chính quyền, còn ra đường thì một bước anh đi,
một bước bị theo dõi…ngay cả nhu cầu đã ly dị vợ, muốn tìm bạn gái giải khuây
cũng khó lòng thực hiện, bởi ngộ nhỡ bị phát hiện thì công bại danh liệt.
![]() |
Matsuda Hà Đông Xuyến |
Đôi ba lần anh
muốn kết hợp công – tư nhưng cuối cùng kết quả cũng chẳng tới đâu. Lúc đầu,
nhân tình huống tổ chức Việt Tân cử Matsuda Hà Đông Xuyến (một chuyên gia tâm
lý, có giọng nói ngọt tựa mía lùi) về tiếp cận móc nối anh, anh đã tỉnh táo
nhận ra để tránh dính đến tổ chức này, song anh cũng tranh thủ sự bạo dạn của
cô giáo tâm lý trời Tây để giảm nỗi bức xúc nam nhi trong hơn một tuần cô có
mặt tại TPHCM, tại một khách sạn trên đường Nguyễn Kiệm. Khi Hà Đông Xuyến đi
rồi, anh trở về với nỗi cô đơn trống trải, rồi anh gặp được một người phụ nữ
cũng cảnh đơn chiếc như anh đó là chị Dương Thị Tân, tuy đứng tuổi nhưng chị
Tân cũng còn khá mặn mà và rất tâm lý, lui tới với chị Tân một thời gian trên
danh nghĩa kết hợp công – tư thì dư luận trong giới dân chủ dị nghị nên anh
đành phải giãn ra.
Trong lúc theo
bạn ăn nhậu ca hát ở một nhà hàng trên đường Nguyễn Văn Trỗi, anh lại làm quen
và kết thân được với một cô nàng tiếp viên khá nóng bỏng, sự nóng bỏng ấy đã
làm anh bao phen cháy túi, thế nhưng bức xúc vẫn hoàn bức xúc bởi cô bé có vẻ
mặt ngây thơ nhưng quá lọc lõi tình trường. Hết tiền, anh quay về với ba mẹ già
nương tựa vào đồng lương hưu còm của các cụ.
Nương nhờ cũng
chẳng được lâu, ngày ngày nghe các cụ ca cẩm, trách hờn rằng: Làm thân nam nhi,
sức dài vai rộng, đã được nuôi ăn học, nên người và đã bước sang tuổi ngũ tuần
rồi mà còn báo cô cha mẹ… anh buồn bực, quyết chí đi tìm việc làm thêm.
Có chuyên môn
ngành ngân hàng, nhưng từ ngày bị SCB sa thải anh chẳng còn cơ hội để xin vào
các ngân hàng khác. Anh lân la thì được giới thiệu vào làm ở công ty Bảo hiểm
Frudential – một công ty mà bất kỳ người thất nghiệp nào cũng được dang tay đón
nhận. Đầu tiên anh phải tham dự một khoá tập huấn, huấn luyện kỹ năng chèo kéo
khách hàng, hết khoá huấn luyện, anh tự tin bước ra đời tìm kiếm khách hàng,
anh tìm đến những quan hệ thân quen, những “nhà dân chủ” nhưng chẳng ai ủng hộ,
sau hơn ba tháng trời lặn lội, cuối cùng anh cũng ký được một hợp đồng mà khách
hàng chẳng phải ai xa lạ, chính là một người cháu của cụ Hoàng Minh Chính. Điều
an ủi duy nhất trong quá trình làm việc với Frudential là anh được một người
quản lý trực tiếp hết sức dịu dàng, xinh xắn, đã rất mực dìu dắt anh trong
nghề, cùng tham gia tư vấn với anh… bên cô ấy, ngọn lửa yêu thương ngày nào lụi
tắt nay như được nhóm lại, bùng cháy một cách trinh nguyên, trong sáng… và anh
như được lột xác để trở về với cuộc đời thực sau bao năm tháng thăng trầm.
Mời tiếp tục
đón đọc:
Phần 4. Ảo ảnh và hiện thực
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét