Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Phần 3. Nghiệt ngã những bi hài

Có thể nói, thời điểm năm 2006 là thời điểm “phát” của phong trào dân chủ VN, các tổ chức, hội nhóm “trăm hoa đua nở” thi nhau tuyên bố ra đời… trên mạng. Nào là Đảng Dân chủ thế kỷ XXI, Đảng Thăng Tiến, Hội Dân Oan,… Trong bối cảnh ấy, cụ Hoàng Minh Chính nhận thức rằng cần phải liên minh các danh xưng ấy lại thành một phong trào, gọi tên là “Phong trào dân chủ VN”, ông còn nhận định thời điểm đó đã chín muồi để ra đời các tổ chức chính trị đối lập với ĐCSVN. Từ nhận định chủ quan đó, ông triệu tập các “nhà dân chủ” có máu mặt mà ông biết để lấy ý kiến, trong đó có các nhà dân chủ như Trần Khuê, Hoàng Tiến, Đỗ Nam Hải, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang… và trong một buổi “họp kín” ông đã giao cho Đỗ Nam Hải chấp bút soạn thảo cái gọi là bản “Tuyên ngôn dân chủ”.
Chấp hành lệnh của trưởng bối, anh Hải đã lên mạng tìm kiếm các bản tuyên ngôn để nghiên cứu, xào xáo lại thành một bản tuyên ngôn cho anh. Nhưng không may cho anh trong quá trình chấp bút do năng lực viết lách và kiến thức xã hội hạn chế nên anh thường phải liên lạc với các “nhà dân chủ” khác để tham khảo ý kiến, nên thông tin về việc anh đang chuẩn bị cho ra đời bản “Tuyên ngôn dân chủ” cũng đến được tai Cơ quan an ninh. Ngay lập tức anh bị bố ráp chặt, bị quần thảo liên tục đến nỗi anh chỉ phác thảo được những nét cơ bản, sau đó gửi đi tham khảo một số người. Trong số đó có cha xứ Nguyễn Văn Lý, ông Lý đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ, sửa lại một số phần theo ý của ông rồi tán phát công khai bất chấp, không tham khảo ý kiến của anh Hải hay cụ Hoàng Minh Chính. Sự tinh ranh của cha xứ Lý ở chỗ, ông nguỵ biện sự cướp công của mình bởi lý do cần phát tán nhanh, gấp nhằm tránh bị công an ngăn chặn. Thế là công lao bao ngày tâm huyết và chịu nhiều uất ức thiệt thòi thì bản thảo tâm huyết của anh Hải bỗng chốc trở thành bản của cha xứ Nguyễn Văn Lý với nội dung khác xa đầy hằn học và nặng tính hiếu chiến.

Sau khi bản “Tuyên ngôn dân chủ VN” được công bố, ông Trần Khuê đọc thấy đã không hài lòng với lời lẽ, bố cục, nên chỉ sau một đêm ông đã thảo ra một bản khác và cũng cho công bố công khai. Tuy nhiên, tiếc là người ta thường rất ưu ái cho cái mới ra nên bản “tuyên ngôn” của ông Trần Khuê do ra muốn nên đã không được đón nhận, trái lại còn bị bài kích và nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Sự nghiệp dân chủ của anh Hải đáng lý đã vẻ vang hơn nếu bản “tuyên ngôn” ấy là của anh, nhưng trớ trêu thay sau cái sự cố bị cướp công đó anh đã mãi mãi trở thành cái bóng mờ nhạt chịu nhiều điều tiếng mà cái “thơm tho” người khác lại hưởng trọn.
Cha xứ Nguyễn Văn Lý sau khi công bố bản “tuyên ngôn” đã có nhiều người ủng hộ, hưởng ứng bởi sự mới mẻ và sự thèm khát của các “nhà dân chủ” lúc đó. Với bản chất ma mãnh, tinh quái của một vị cha xứ từng trải, ông đã cùng số môn đồ thân thiết như Phan Văn Lợi, Nguyễn Chính Kết lập nên một tổ chức với tên gọi là “Khối 8406”.
Để làm đẹp mặt tổ chức, vừa để anh Hải bớt cay cú mà chọc gậy phá đám nên cha Lý và Lợi bàn bạc lập ra Ban đại diện và cho anh Hải đứng tên trong đó cho có ban, có bệ. Nhưng anh Hải vốn tính bộc trực nên không đủ khả năng nhìn thấu suốt được những toan tính của hai vị cha xứ đầy bản lĩnh ấy và cứ thế anh bị cuốn trôi theo. Ngày đêm anh cứ tưởng mình có ảnh hưởng lớn trong cái tổ chức rất được hưởng ứng ấy, anh liên tục trả lời phỏng vấn với những điệp khúc quen thuộc: “Tôi Phương Nam – Đỗ Nam Hải, đang phát biểu từ thành phố Sài Gòn, Việt Nam”; anh cũng “thường xuyên” được cha xứ Phan Văn Lợi gửi nội dung các bản “Kháng thư” để góp ý… nhưng thực ra, nếu xét công bằng thì anh chỉ bị lợi dụng danh xưng cho đa dạng thành thần, chứ thực chất các cha xứ đó đã dần lái “Khối 8406” sang hướng thuần tôn giáo từ lúc nào anh nào có biết. Tổ chức Khối 8406 thực chất phát triển tới đâu, được hưởng ứng, tài trợ thế nào, dù anh là người trong ban đại diện nhưng gần như chỉ biết khi không cần phải giấu. Ở ngoại quốc, hàng loạt các khối yểm trợ như 1706, 1906 lần lượt ra đời nhằm quyên góp tiền tài trợ và đã gửi về cho “Khối 8406” qua cha xứ Phan Văn Lợi hàng năm trên dưới trăm ngàn USD, cha xứ Lợi gửi tài trợ cho thân nhân một số anh chị em đang chấp hành án tù chính trị để lấy tiếng, chứng minh với hải ngoại, còn lại ông viện cớ củng cố tổ chức “Khối 8406” thoải mái tiêu xài. Anh Hải thi thoảng mới được ông nhón tay ban cho một ít thơm thảo.
Cha xứ Phan Văn Lợi ung dung hưởng thụ nơi thành phố Huế mộng mơ, còn nơi Sài Thành đổ lửa, anh Hải phải chịu cảnh “hữu danh, vạ thực”. Bởi có tên trong Ban đại diện mà anh bị công an TPHCM chăm sóc chu đáo, chẳng hoạt động được gì, cứ ru rú trong nhà để trả lời phỏng vấn lên án chính quyền, còn ra đường thì một bước anh đi, một bước bị theo dõi…ngay cả nhu cầu đã ly dị vợ, muốn tìm bạn gái giải khuây cũng khó lòng thực hiện, bởi ngộ nhỡ bị phát hiện thì công bại danh liệt.
Matsuda Hà Đông Xuyến

Đôi ba lần anh muốn kết hợp công – tư nhưng cuối cùng kết quả cũng chẳng tới đâu. Lúc đầu, nhân tình huống tổ chức Việt Tân cử Matsuda Hà Đông Xuyến (một chuyên gia tâm lý, có giọng nói ngọt tựa mía lùi) về tiếp cận móc nối anh, anh đã tỉnh táo nhận ra để tránh dính đến tổ chức này, song anh cũng tranh thủ sự bạo dạn của cô giáo tâm lý trời Tây để giảm nỗi bức xúc nam nhi trong hơn một tuần cô có mặt tại TPHCM, tại một khách sạn trên đường Nguyễn Kiệm. Khi Hà Đông Xuyến đi rồi, anh trở về với nỗi cô đơn trống trải, rồi anh gặp được một người phụ nữ cũng cảnh đơn chiếc như anh đó là chị Dương Thị Tân, tuy đứng tuổi nhưng chị Tân cũng còn khá mặn mà và rất tâm lý, lui tới với chị Tân một thời gian trên danh nghĩa kết hợp công – tư thì dư luận trong giới dân chủ dị nghị nên anh đành phải giãn ra.
Trong lúc theo bạn ăn nhậu ca hát ở một nhà hàng trên đường Nguyễn Văn Trỗi, anh lại làm quen và kết thân được với một cô nàng tiếp viên khá nóng bỏng, sự nóng bỏng ấy đã làm anh bao phen cháy túi, thế nhưng bức xúc vẫn hoàn bức xúc bởi cô bé có vẻ mặt ngây thơ nhưng quá lọc lõi tình trường. Hết tiền, anh quay về với ba mẹ già nương tựa vào đồng lương hưu còm của các cụ.
Nương nhờ cũng chẳng được lâu, ngày ngày nghe các cụ ca cẩm, trách hờn rằng: Làm thân nam nhi, sức dài vai rộng, đã được nuôi ăn học, nên người và đã bước sang tuổi ngũ tuần rồi mà còn báo cô cha mẹ… anh buồn bực, quyết chí đi tìm việc làm thêm.
Có chuyên môn ngành ngân hàng, nhưng từ ngày bị SCB sa thải anh chẳng còn cơ hội để xin vào các ngân hàng khác. Anh lân la thì được giới thiệu vào làm ở công ty Bảo hiểm Frudential – một công ty mà bất kỳ người thất nghiệp nào cũng được dang tay đón nhận. Đầu tiên anh phải tham dự một khoá tập huấn, huấn luyện kỹ năng chèo kéo khách hàng, hết khoá huấn luyện, anh tự tin bước ra đời tìm kiếm khách hàng, anh tìm đến những quan hệ thân quen, những “nhà dân chủ” nhưng chẳng ai ủng hộ, sau hơn ba tháng trời lặn lội, cuối cùng anh cũng ký được một hợp đồng mà khách hàng chẳng phải ai xa lạ, chính là một người cháu của cụ Hoàng Minh Chính. Điều an ủi duy nhất trong quá trình làm việc với Frudential là anh được một người quản lý trực tiếp hết sức dịu dàng, xinh xắn, đã rất mực dìu dắt anh trong nghề, cùng tham gia tư vấn với anh… bên cô ấy, ngọn lửa yêu thương ngày nào lụi tắt nay như được nhóm lại, bùng cháy một cách trinh nguyên, trong sáng… và anh như được lột xác để trở về với cuộc đời thực sau bao năm tháng thăng trầm.

Mời tiếp tục đón đọc:
Phần 4. Ảo ảnh và hiện thực

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét